Thời gian hơn 80 năm thuộc Pháp đã tác động sâu xa đến toàn bộ xã hội Việt Nam. Trong thời gian đó, cũng có những người Pháp mang những điều tốt đẹp của văn hóa Pháp vào đất nước ta. Họ là những người bạn.
Người đầu tiên tôi nhớ đến là Charles Edouard Hocquard (1853-1911) - bác sĩ quân y, nhà thám hiểm và nhiếp ảnh gia. Ông từng tham gia đội quân viễn chinh Pháp sang Đông Dương vào khoảng năm 1884. Trong số nhiều người cùng thời viết về Việt Nam, ông có cái nhìn cởi mở và trân trọng người bản xứ.
Trong tác phẩm "Một chiến dịch ở Bắc Kỳ - Une Campagne au Tonkin", ông viết: "Ở Pháp vẫn còn rất nhiều người nghĩ rằng người An Nam là những kẻ hoang dại. Nhưng trên thực tế, họ có một nền văn minh còn lâu đời hơn người Pháp và chỉ có thể nói nó hoàn toàn khác biệt chứ không hề kém hoàn thiện hay kém tinh tế".
Bác sĩ Hocquard mô tả khung ảnh Hồ Gươm với rất nhiều thiện cảm: "Cái Hồ Nhỏ (Petit Lac, cách người Pháp gọi Hồ Gươm khi đó) này, có chu vi chỉ hơn hai cây số, xung quanh hồ có nhiều ngôi chùa đẹp, hoặc những ngôi nhà xinh xắn của người An Nam nằm giữa những khu vườn xanh tươi".
Hocquard chỉ ở Việt Nam một thời gian ngắn, ngoài chữa bệnh cho thương binh, ông cũng chữa bệnh cho người bản xứ. Ông đã chụp và xuất bản rất nhiều ảnh tư liệu có giá trị về Việt Nam. Nhờ các bức ảnh và ghi chép của ông, chúng ta hiểu rõ hơn về Hà Nội những năm cuối thế kỷ 19.
Một người khác, đến Việt nam sau Hocquard một chút, và gắn bó cả đời mình với xứ sở này là bác sĩ nổi tiếng - Alexandre Émile John Yersin (1863-1943).
Toàn quyền Paul Doumer, trước khi rời Đông Dương, mời Yersin từ Nha Trang ra Hà Nội để mở một trường Y, một bệnh viện, và một trung tâm vệ sinh. Yersin sau đó được bổ nhiệm làm hiệu trưởng đầu tiên của École de Médecine de Hanoi (Trường Y khoa Hà Nội), tiền thân của Đại học Y Hà Nội.
Ông thiết lập giáo trình theo hình mẫu đại học Pháp - sáng khám bệnh ở bệnh viện, chiều dành cho lý thuyết. Đích thân ông giảng dạy trong các giờ vật lý, hóa học, và phẫu thuật.
Trường khai giảng ngày 1/3/1902, năm học đầu tiên có 29 sinh viên, tất cả đều được nhận học bổng tám đồng mỗi tháng. Ghi nhận của Yersin về những sinh viên Y khoa đầu tiên được đào tạo ở Đông Dương: "Họ rất chăm học, có những người xuất sắc ngang với những sinh viên giỏi nhất bên Pháp. Điều thú vị là ngay cả những người thông minh cũng học rất chăm. Gần như có thể nói rằng không có ai lười biếng".
Ông có công di chuyển trường khỏi làng Kinh Lược, cho xây dựng ngôi trường ở phố Bobillot (Lê Thánh Tông ngày nay), và xây dựng bệnh viện thực hành ở phố Lò Đúc. Sau hai năm, khi mọi thứ đã vào guồng, Yersin từ nhiệm và trở về Nha Trang.
Ngày nay, tên của Yersin được đặt cho một con phố. Tượng đồng Yersin được dựng trong khuôn viên Đại học Y Hà Nội. Ông đứng đó, vị hiệu trưởng đầu tiên trông thật giản dị, với phong thái của một nhà thám hiểm.
Ở Hà Nội hiện nay có những người Pháp được dựng tượng, thì đều là ngành y: tượng Pasteur ở Viện Vệ sinh dịch tễ TW (Viện Pasteur trước kia), tượng Marie Curie ở Bệnh viện K (Viện Radium Đông Dương), và Yersin.
Tiếp theo tôi muốn kể về những người có công rất lớn với Hà Nội, nhưng lại ít được công chúng biết đến. Đó là các kiến trúc sư trưởng: Auguste Henri Vildieu (1847-1926) và Ernest Hébrard (1875-1933).
Ayguste Henri Vildieu phụ trách việc quy hoạch thành phố Hà Nội từ năm 1897 đến 1907. Trong vòng 10 năm, ông, đồng thời thiết kế nhiều công trình quan trọng như: Phòng Thương mại và Nông nghiệp, Bưu điện, Nha Công chính và Văn phòng Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, Ga Hà Nội, Nha Thương chính, Tòa án, Thư viện và Phủ Toàn quyền Đông Dương.
Các công trình do Vildieu thiết kế vẫn được sử dụng cho đến tận ngày nay. Chúng mang phong cách tân cổ điển, làm cho Hà Nội mang đậm dấu ấn một thành phố châu Âu.
Kiến trúc sư trưởng tiếp theo có nhiều công lao với Hà Nội là Ernest Hébrard. Ông đã quy hoạch nhiều thành phố thuộc địa của Pháp ở châu Phi. Năm 1921, ông đến Đông Dương và triển khai một hợp đồng sáu tháng với Toàn quyền Đông Dương về quy hoạch Hà Nội. Bản quy hoạch được chấp thuận và ông đã ở lại Hà Nội đến tận khi mất.
Quy hoạch Hà Nội của ông mang tinh thần hiện đại, theo vùng chức năng. Ông để nguyên khu phố cũ, mở rộng Hà Nội theo các khu như khu hành chính, khu công nghiệp, khu công viên giải trí... Các trụ sở hành chính nằm đối xứng hai bên trụ xuyên tâm. Đồ án của Hebrard ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quy hoạch Hà Nội sau này.
Hebrard còn là cha đẻ của phong cách kiến trúc Đông Dương, nơi giao hòa của kiến trúc Á - Âu. Một số công trình tiêu biểu do ông thiết kế gồm Trụ sở Bộ Ngoại giao, Bảo tàng Lịch sử, Viện Pasteur, Trụ sở Đại học Việt Nam, Nhà thờ Cửa Bắc. Trường Đại học Y Hà Nội sau này khi xây cơ sở mới ở Khương Thượng, đã mang nguyên hình dáng cổng vòm ở trường cũ trên phố Lê Thánh Tông về trường mới.
Người thứ năm là họa sĩ Victor Tardieu (1870-1937). Tháng 2/1921, Victor Tardieu tới Sài Gòn, sau đó ra Hà Nội. Tại đây, ông nhận lời vẽ một bức tranh khổ lớn (180 m²) cho giảng đường chính của Viện Đại học Đông Dương đang được xây dựng.
Nhờ mối quan hệ rộng rãi với những nhân vật cao cấp, ông thuyết phục được Toàn quyền Đông Dương Martial Merlin ra sắc lệnh thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, thuộc Viện Đại học Đông Dương. Tháng 11/1924, Victor Tardieu trở thành hiệu trưởng đầu tiên của ngôi trường này.
Tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Tardieu không áp đặt một trường phái nào mà chỉ truyền cho học trò lòng say mê và những kỹ thuật hội họa cơ bản, đặc biệt là sử dụng sơn dầu. Bên cạnh những ví dụ mẫu mực của các họa sĩ nổi tiếng phương Tây, Tardieu nhấn mạnh tới chính truyền thống nghệ thuật của Việt Nam như là điểm khởi đầu cho sự phát triển phù hợp với xu hướng thế giới.
Năm 1937, họa sĩ Tardieu mất tại Hà Nội. Ông để lại di sản lớn là đào tạo ra các họa sĩ của trường Mỹ thuật Đông Dương nổi tiếng, sau này là trụ cột của nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Năm 2006, tác phẩm tranh tường của ông tại Trụ sở Đại học Đông Dương ở phố Lê Thánh Tông được phục chế. Trên bức tranh, Tardieu đưa vào câu nói nổi tiếng Nhân tài quốc gia chi nguyên khí, tức là câu "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia" của danh sĩ Việt Nam Thân Nhân Trung, mà ngày nay các trường học đang dùng.
Còn nhiều nữa những nhà giáo, nhà nghiên cứu, nghệ sĩ người Pháp khác, yêu Hà Nội, chân thành xây dựng Hà Nội. Họ đã giới thiệu các phong cách nghệ thuật châu Âu, và đồng thời, chính những vẻ đẹp của Hà Nội đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho tác phẩm của họ.
Những người bạn Pháp nói trên đã để lại ở Hà Nội không chỉ công trình, trường lớp hay tác phẩm nghệ thuật, mà còn cả tinh thần trân trọng văn hóa bản địa và khát vọng khai mở tri thức. Nhắc lại họ hôm nay để nhớ rằng lịch sử không chỉ có mất mát và đau thương, mà còn có những cuộc gặp gỡ làm giàu thêm bản sắc Việt Nam.
Quan Thế Dân